Vietnam.vn - Nền tảng quảng bá Việt Nam

Quan điểm của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lê-nin về quần chúng nhân dân với tư cách động lực của phát triển lịch sử và sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam

TCCS - Chủ nghĩa Mác - Lê-nin chỉ rõ: Quần chúng nhân dân là chủ thể sáng tạo ra lịch sử. Quan điểm này là nguồn gốc lý luận và phương pháp luận cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc giải quyết một cách đúng đắn mối quan hệ Đảng - nhân dân trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Xây dựng, củng cố và phát triển mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân là một vấn đề lớn, hệ trọng và có ý nghĩa về lý luận cũng như thực tiễn trong công cuộc đổi mới đất nước; qua đó, khẳng định năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng trong thời kỳ mới.

Tạp chí Cộng SảnTạp chí Cộng Sản02/05/2025

Các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lê-nin đặc biệt coi trọng một đặc trưng của nhân tố chủ quan trong lịch sử là phát triển sáng kiến và tính tích cực của quần chúng nhân dân_Ảnh: Tư liệu

Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin và quy luật gia tăng vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử

Sự phát triển tiến bộ của xã hội không tách rời khỏi hoạt động sáng tạo của quần chúng nhân dân. Vì vậy, C. Mác và Ph. Ăng-ghen đã khẳng định: “Lịch sử không làm gì hết, nó “không có tính phong phú vô cùng tận nào cả”, nó “không chiến đấu ở những trận nào cả”! Không phải “lịch sử”, mà chính con người, con người thực sự, con người sống mới là kẻ làm ra tất cả những cái đó, có tất cả những cái đó và chiến đấu cho tất cả những cái đó. “Lịch sử” không phải là một nhân cách đặc thù nào đó sử dụng con người làm phương tiện đạt tới các mục đích của mình. Lịch sử chẳng qua chỉ là hoạt động của con người theo đuổi mục đích của bản thân mình”(1). Không dừng lại ở việc nhấn mạnh và luận chứng khoa học cho vai trò quyết định của quần chúng nhân dân trong lịch sử, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lê-nin còn đặt tiền đề lý luận cho việc phát huy năng lực sáng tạo của quần chúng nhân dân, cho phong trào thi đua xây dựng cuộc sống mới. Đây chính là quy luật gia tăng vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử. C. Mác và Ph. Ăng-ghen lần đầu tiên trình bày quy luật này trong tác phẩm “Gia đình thần thánh” (năm 1844), khi chỉ rõ: “Hoạt động lịch sử càng lớn lao thì do đó, quần chúng, mà hoạt động lịch sử đó là sự nghiệp của mình, cũng sẽ lớn lên theo”(2).

Tác động của quy luật gia tăng vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử thể hiện đặc biệt rõ trong việc đẩy nhanh tốc độ phát triển xã hội tiến tới. Ở đây cũng cần lưu ý tới một điểm khác nữa là: luận điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin về vai trò của quần chúng nhân dân trong phát triển xã hội không có điểm nào chung với chủ nghĩa duy ý chí và chủ nghĩa chủ quan. Quần chúng đóng vai trò quyết định trong lịch sử có liên hệ một cách mật thiết và phù hợp với các điều kiện lịch sử cụ thể, trong khuôn khổ của những điều kiện khách quan đang tồn tại.

Hiệu quả tính chất sáng tạo của quần chúng nhân dân phụ thuộc vào mức độ thuận lợi của các tiền đề vật chất cho quá trình sáng tạo ấy, với lực lượng xã hội phù hợp. Chỉ dựa trên tổng thể các quy luật của sự phát triển xã hội, chúng ta mới có thể giải thích vai trò của quần chúng nhân dân trong hoạt động lịch sử xã hội. Chủ nghĩa anh hùng, tinh thần kiên quyết và sự hy sinh của quần chúng nhân dân, tài năng của các lãnh tụ, tất cả những điều đó vẫn chưa thể bảo đảm thắng lợi của các phong trào xã hội, nếu thiếu các điều kiện khách quan cần thiết. Giải thích về điều này, C. Mác nhận định, “Con người xây dựng cho mình một thế giới mới không phải bằng “những của cải trần gian”, như bọn người thô tục vẫn tưởng do những định kiến của chúng, mà bằng những thành quả lịch sử hiện có trong thế giới đang tiêu vong của họ. Ngay trong tiến trình phát triển của mình, con người trước hết cần phải tạo ra những điều kiện vật chất của một xã hội mới, và không một nỗ lực mạnh mẽ nào của tư tưởng hay ý chí lại có thể giải thoát họ khỏi số phận ấy”(3). Đứng trước những nhiệm vụ xã hội càng đa dạng và càng lớn, thì số lượng người cần phải tham gia vào việc giải quyết chúng cần phải càng nhiều. Đồng thời, các nhân tố tư tưởng và tâm lý xã hội có tác động mạnh mẽ đến tính chất và định hướng của hoạt động lịch sử của con người, cũng như đến sự phát triển của bản thân họ trong hoạt động ấy. Chính vì vậy, trong lịch sử không thể thực hiện bất kỳ cải tạo căn bản nào nếu chưa có sự chín muồi của quần chúng nhân dân.

Quy luật gia tăng vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử trở thành điều kiện chung cho sự phát triển xã hội, bảo đảm sự phát triển tiến bộ của xã hội. Không phải ngẫu nhiên mà các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lê-nin đã đặc biệt coi trọng một đặc trưng của nhân tố chủ quan trong lịch sử là phát triển sáng kiến và tính tích cực của quần chúng nhân dân, phân tích tỉ mỉ bối cảnh cụ thể thúc đẩy hay kìm hãm sự phát triển ấy. Chính trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay, khi đòi hỏi phải huy động tối đa tất cả các nguồn lực xã hội, trước hết là nguồn nhân lực, thì việc thức tỉnh và phát triển tính tích cực của quần chúng nhân dân trở thành một trong các nhiệm vụ quan trọng và cấp bách hàng đầu của Đảng và Nhà nước ta. Vì thế, các phong trào thi đua yêu nước là hoàn toàn phù hợp với nhiệm vụ trọng đại này.

Quy luật gia tăng vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử còn có cả các tiêu chí về chất, cơ chế tác động của nó bao gồm hàng loạt nhân tố khách quan và chủ quan. Dưới tác động của các điều kiện khách quan mà hoạt động lịch sử của quần chúng diễn ra ở trong đó, thì các điều kiện chủ quan của hoạt động ấy - mức độ tự giác và có tổ chức của quần chúng - cũng biến đổi. Nếu chúng ta xem xét các hình thức hoạt động lịch sử của quần chúng ở các giai đoạn lịch sử khác nhau dưới góc độ ấy, thì chúng ta sẽ dễ dàng phát hiện ra sự tương tác biện chứng giữa các phương diện khách quan và chủ quan của hoạt động đó, cũng như của bản thân quá trình gia tăng vai trò của quần chúng nhân dân trong phát triển xã hội. Hoạt động lịch sử sáng tạo của quần chúng nhân dân quy định tính chất, quy mô và hình thức của tính tích cực xã hội của họ, mức độ tác động trực tiếp của họ đến đời sống xã hội.

Thực tiễn cho thấy, kết quả của hoạt động sáng tạo của quần chúng nhân dân phụ thuộc vào những tiền đề vật chất có thuận lợi hay không, vào tương quan giữa các lực lượng xã hội ở trong nước và bối cảnh quốc tế. Chỉ dựa trên toàn bộ tổng thể các quy luật phát triển xã hội mới có thể hiểu nguyên nhân sâu xa của hoạt động sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân dân. Vai trò đó của quần chúng nhân dân được phát huy cao độ, khi đông đảo quần chúng thoát  khỏi sự trói buộc của những tư tưởng phản động, phản khoa học, lạc hậu và được giác ngộ bởi tư tưởng khoa học và cách mạng.

Sự sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân dân phụ thuộc không những vào phương thức sản xuất ra đời sống vật chất (nhân tố quyết định), mà còn vào toàn bộ tổng thể những quá trình phát triển xã hội, chính trị và tinh thần trong xã hội. Do vậy, sự gia tăng vai trò của quần chúng nhân dân trong phát triển xã hội ở mỗi thời đại lịch sử đều có cơ sở khách quan là sự phát triển của lực lượng sản xuất và toàn bộ hệ thống quan hệ xã hội, phụ thuộc vào việc mở rộng quy mô và tính chất phức tạp của cơ cấu thực tiễn lịch sử xã hội.

Quan điểm và sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với vai trò của quần chúng nhân dân trong sự nghiệp cách mạng

Một là, dân là gốc, là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới đất nước, của công cuộc xây dựng và chỉnh đốn Đảng

Đại hội VI của Đảng (năm 1986) đã rút ra bốn bài học kinh nghiệm, trong đó bài học đầu tiên là: “... trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”, xây dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động”(4); đồng thời khẳng định: “Mọi chủ trương, chính sách của Đảng phải xuất phát từ lợi ích, nguyện vọng và khả năng của nhân dân lao động, phải khơi dậy được sự đồng tình, hưởng ứng của quần chúng. Quan liêu, mệnh lệnh, xa rời quần chúng, đi ngược lại lợi ích của nhân dân là làm suy yếu sức mạnh của Đảng”(5).

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991) rút ra bài học kinh nghiệm thứ hai: “…sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Chính nhân dân là người làm nên thắng lợi lịch sử. Toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chân chính của nhân dân”(6). Đại hội VIII của Đảng, khi tổng kết chặng đường đổi mới 10 năm (1986 - 1996) đã rút ra 6 bài học; trong đó, bài học thứ tư là “Mở rộng và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy sức mạnh của cả dân tộc” và khẳng định: “Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, vì nhân dân và do nhân dân. Chính những ý kiến, nguyện vọng và sáng kiến của nhân dân là nguồn gốc hình thành đường lối đổi mới của Đảng”(7).

Tại Đại hội X, Đảng nhất quán quan điểm: đổi mới phải dựa vào nhân dân, vì lợi ích của nhân dân, phù hợp với thực tiễn, luôn luôn sáng tạo. Từ thực tiễn 20 năm đổi mới (1986 - 2006), Đảng ta tiếp tục nhấn mạnh: “… đổi mới phải vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò chủ động, sáng tạo của nhân dân, xuất phát từ thực tiễn, nhạy bén với cái mới”(8). Tổng kết 30 năm tiến hành đổi mới, Đại hội XII của Đảng tiếp tục quán triệt sâu sắc bài học kinh nghiệm: “… đổi mới phải luôn luôn quán triệt quan điểm “dân là gốc”, vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò làm chủ, tinh thần trách nhiệm, sức sáng tạo và mọi nguồn lực của nhân dân; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc”(9).

Đại hội XIII của Đảng tiếp tục khẳng định, phát triển và làm sâu sắc hơn nữa quan điểm “Dân là gốc”, trong đó vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của nhân dân trong chiến lược phát triển đất nước được đặc biệt đề cao và lần đầu tiên được đề cập trong văn kiện Đại hội: “… trong mọi công việc của Đảng và Nhà nước, phải luôn quán triệt sâu sắc, thực hiện nghiêm túc quan điểm “dân là gốc”; thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, kiên trì thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ cuộc sống, nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân… Thắt chặt mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng”(10). So với các đại hội trước đây của Đảng, quan điểm “Dân là gốc” trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng được thể hiện nhất quán, xuyên suốt và bao trùm trong tất cả các văn kiện, trên tất cả các nội dung, lĩnh vực: Từ hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật đến việc tổ chức thực hiện; trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại; trong xây dựng Đảng và hệ thống chính trị. Qua gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới, gần 35 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử; đất nước phát triển mạnh mẽ, toàn diện, như đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định: Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay.

Qua gần  40 năm tiến hành công cuộc đổi mới, đất nước phát triển mạnh mẽ, toàn diện, đời sống nhân dân không ngừng được nâng cao (ảnh: Trương Công Minh)_Nguồn: nhiepanhdoisong.vn

Hai là, bổ sung, phát triển, từng bước hoàn thiện quan điểm về dân chủ và mở rộng, phát huy quyền làm chủ của nhân dân

- Lĩnh vực kinh tế

Quá trình dân chủ hóa trong lĩnh vực kinh tế ngày càng mở rộng gắn với phát triển đa dạng các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp. Quan điểm của Đảng ta về vai trò của các thành phần kinh tế qua từng giai đoạn có sự phát triển, thay đổi cho phù hợp với điều kiện cụ thể, luôn thực hiện nhất quán, xuyên suốt chính sách kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa(11). Sự đa dạng về hình thức sở hữu và các thành phần kinh tế đã làm cho quan hệ sản xuất phù hợp hơn với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; là tiền đề quan trọng giải phóng sức sản xuất, phát triển kinh tế - xã hội, cải thiện và nâng cao đời sống của nhân dân, xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội.

Cùng với văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc từ khóa VI đến khóa XIII, Đảng ta đã ban hành nhiều nghị quyết về phát triển kinh tế nói chung, về các thành phần kinh tế nói riêng, trọng tâm là Nghị quyết số 10-NQ/TW, ngày 3-6-2017, của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII “Về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”; Nghị quyết số 11-NQ/TW, ngày 3-6-2017, của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII “Về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”; Nghị quyết số 20-NQ/TW, ngày 16-6-2022, của Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII “Về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể trong giai đoạn mới”.

Cụ thể hóa chủ trương đó, Nhà nước đã nỗ lực, tích cực, khẩn trương xây dựng, sửa đổi, bổ sung hệ thống pháp luật về kinh tế nhằm đáp ứng những yêu cầu của quá trình đổi mới và hội nhập quốc tế, trọng tâm là các vấn đề về cải cách thể chế nhằm thúc đẩy kinh tế phát triển; xóa bỏ những quy định hạn chế cạnh tranh, phân biệt đối xử; hoàn thiện các thủ tục hành chính về doanh nghiệp theo hướng tập trung, đơn giản hóa, thực hiện chế độ công khai, minh bạch(12)…; đồng thời, làm rõ vị trí, vai trò, yêu cầu của kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài (FDI).

- Lĩnh vực chính trị

Điều 6, Hiến pháp năm 2013 khẳng định: “Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước”. Theo đó, nhân dân thực hiện quyền dân chủ trực tiếp chủ yếu thông qua 3 hình thức: ứng cử, bầu cử, bãi nhiệm đại biểu Quốc hội, đại biểu hội đồng nhân dân; thực hiện Quy chế Dân chủ cơ sở; trưng cầu dân ý.

Về bầu cử Quốc hội, hội đồng nhân dân các cấp: Quyền bầu cử là một trong các phương thức thực hiện dân chủ trực tiếp cơ bản nhất của nhân dân, đây cũng là quyền chính trị cơ bản của nhân dân. Thông qua bầu cử, nhân dân thành lập bộ máy nhà nước. Thông qua hoạt động này, nhân dân lựa chọn những người đủ đức, đủ tài đại diện cho mình, thay mặt mình tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội.

Trải qua nhiều kỳ bầu cử đại biểu Quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp cho thấy: các quy chế, quy định bầu cử đã không ngừng được hoàn thiện, tạo cơ sở pháp lý bảo đảm cho quyền lực của người dân được thực hiện tốt hơn trên thực tế, góp phần xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; đồng thời, củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Gần đây nhất, hình thức dân chủ trực tiếp của người dân trong cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIV, XV và đại biểu hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2015 - 2020, 2021 - 2026 đã được phát huy tốt, bảo đảm dân chủ, đúng pháp luật, cử tri tham gia bỏ phiếu đạt tỷ lệ cao(13).

Về quyền biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân: Đây là một trong các hình thức thực hiện quyền lực nhà nước trực tiếp của nhân dân và được xem là một hình thức dân chủ trực tiếp điển hình. Hình thức này đã được ghi nhận từ bản Hiến pháp đầu tiên của Nhà nước ta - Hiến pháp năm 1946, nhưng với tên gọi là quyền “phúc quyết”. Đây là hình thức mà nhân dân trực tiếp thể hiện ý chí của mình trong việc quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước. Quyền biểu quyết được quy định tại Điều 29 Hiến pháp năm 2013: “Công dân đủ mười tám tuổi trở lên có quyền biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân”. Và quyền này đã được cụ thể hóa bằng Luật Trưng cầu ý dân ban hành năm 2015(14). Luật Trưng cầu ý dân ra đời đã thể hiện bản chất của Nhà nước Việt Nam pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; phản ánh các giá trị tư tưởng trọng dân, tin dân, dựa vào dân, dân là gốc được thể hiện rõ trong truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam, trong tư tưởng Hồ Chí Minh và trong đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Trưng cầu ý dân cũng là một phương thức để người dân trực tiếp thể hiện ý chí và quyền lực của mình đối với các vấn đề quan trọng của đất nước trong từng thời điểm cụ thể.

Nhân dân còn tham gia quản lý nhà nước (đóng góp ý kiến; khiếu nại, tố cáo; đối thoại dân chủ; thảo luận, phản biện) và tham gia xây dựng chính sách, pháp luật thông qua Luật Xây dựng văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL). Các dự án, dự thảo VBQPPL đều được tổ chức lấy ý kiến đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của văn bản, các cơ quan, tổ chức có liên quan với nhiều hình thức phù hợp. Việc đăng tải công khai các dự thảo VBQPPL trên các cổng thông tin, trang thông tin điện tử để lấy ý kiến nhân dân, doanh nghiệp được thực hiện tương đối nghiêm túc. Ở địa phương, khi xây dựng nghị quyết của hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố, các dự thảo VBQPPL của hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố đều được gửi lấy ý kiến ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp tỉnh. Tiêu biểu như quá trình soạn thảo, lấy ý kiến rộng rãi của toàn thể nhân dân về dự thảo bản Hiến pháp năm 2013 đã thể hiện đây thực sự là cuộc sinh hoạt chính trị rộng lớn; đã tổ chức được 28.000 hội thảo, hội nghị, tọa đàm và thu được 26 triệu lượt ý kiến góp ý về nội dung Hiến pháp(15).

Về giám sát và bãi miễn đại biểu dân cử: Đây là hình thức thực hiện quyền lực nhà nước trực tiếp của nhân dân. Quyền giám sát là một quyền đương nhiên mà nhân dân - người chủ của đất nước, người nắm quyền lực nhà nước - có quyền tiến hành đối với các cơ quan, tổ chức, cá nhân đã được người chủ quyền lực trao quyền, ủy thác quyền. Thông qua hoạt động tiếp xúc cử tri, các đại biểu dân cử báo cáo hoạt động của cơ quan dân cử với cử tri cũng như nắm được tâm tư, nguyện vọng, kiến nghị của cử tri để kịp thời phản ánh đến cơ quan nhà nước và cá nhân có thẩm quyền giải quyết trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn. Đồng thời, nhân dân cũng có quyền bỏ phiếu bất tín nhiệm với những đại biểu dân cử không còn xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân.

Về hội thẩm nhân dân tham gia xét xử: Là hình thức thực hiện quyền lực trực tiếp của nhân dân, việc hội thẩm nhân dân tham gia xét xử thể hiện sự tôn trọng của Nhà nước trong việc đề cao quyền làm chủ của nhân dân. Khoản 1 Điều 103 Hiến pháp năm 2013 quy định rõ: “Việc xét xử sơ thẩm của Tòa án nhân dân có Hội thẩm tham gia, trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn”. Với quy định này, nhân dân được trực tiếp tham gia vào hoạt động thực hiện quyền tư pháp của tòa án nhân dân. Đưa tiếng nói từ phía xã hội vào quá trình xét xử giúp cho việc xét xử chính xác, khách quan, phù hợp với quyền lợi và nguyện vọng của nhân dân.

Trong 5 năm trở lại đây, thực hiện dân chủ trực tiếp còn được thể hiện qua đối thoại trực tiếp của nhân dân với lãnh đạo, người đứng đầu cấp ủy, chính quyền theo các quy chế, quy định, nhất là Quy định số 11-QĐi/TW, ngày 18-2-2019, của Bộ Chính trị “Về trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy trong việc tiếp dân, đối thoại trực tiếp với dân và xử lý những phản ánh, kiến nghị của dân”. Theo đó, công tác tiếp dân, đối thoại với nhân dân được thực hiện nghiêm túc, có nền nếp và được cấp ủy, chính quyền xác định là một nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên. Lịch tiếp công dân định kỳ của bí thư cấp ủy, chủ tịch ủy ban nhân dân các cấp được niêm yết công khai. Bên cạnh tiếp dân định kỳ, các địa phương đã quan tâm tổ chức tiếp dân, đối thoại đột xuất khi có vụ việc nổi cộm, phức tạp, đông người, kéo dài hoặc vụ việc có thể gây ra hậu quả nghiêm trọng, ảnh hưởng đến an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, bảo đảm không để xảy ra “điểm nóng” từ cơ sở. Theo thống kê số liệu của 63 tỉnh, thành phố, từ năm 2017 đến năm 2021, người đứng đầu các tỉnh ủy, thành ủy trực thuộc Trung ương đã tổ chức 1.144 cuộc đối thoại với nhân dân và doanh nghiệp(16). Thông qua tiếp dân, đối thoại, nhiều phản ánh, kiến nghị liên quan đến cán bộ, đảng viên có biểu hiện suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” được tiếp thu, chỉ đạo xem xét, xử lý kịp thời; đồng thời, giúp cấp ủy, chính quyền nắm bắt được tâm tư, nguyện vọng của nhân dân cũng như các vấn đề mà nhân dân quan tâm, để có những chủ trương lãnh đạo, chỉ đạo kịp thời; tạo sự đồng thuận trong cán bộ, đảng viên và nhân dân.

Nhân dân thực hiện quyền lực bằng hình thức dân chủ đại diện, thông qua các cơ quan đại diện để thực hiện quyền lực của mình, cụ thể là: Quốc hội, hội đồng nhân dân các cấp, các cơ quan nhà nước khác. Theo quy định tại Điều 6 Hiến pháp năm 2013, thì không chỉ với Quốc hội, hội đồng nhân dân, mà nhân dân có thể thông qua các cơ quan nhà nước khác, như Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ, ủy ban nhân dân và các cơ quan thuộc ủy ban nhân dân các cấp, tòa án nhân dân các cấp… để thực hiện quyền lực nhà nước của mình. Đây là một trong những bổ sung mới của Hiến pháp năm 2013. Ngoài việc thông qua các cơ quan được quy định tại Hiến pháp như đã nêu trên, các tầng lớp nhân dân còn được thực hiện quyền làm chủ của mình qua hoạt động giám sát, phản biện xã hội, góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội, các hội quần chúng do Đảng, Nhà nước giao nhiệm vụ - các tổ chức đại diện cho quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, hội viên và nhân dân(17).

Để phát huy vai trò của Nhà nước trong việc hiện thực hóa quy luật gia tăng vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử ở điều kiện hiện nay của Việt Nam, Nhà nước vừa phải thực hiện tốt các chức năng và nhiệm vụ cơ bản của nhà nước nói chung, đồng thời thực hiện tốt các vai trò và chức năng mới, những nội dung mới trong vai trò và chức năng vốn có của Nhà nước theo yêu cầu phát triển, do điều kiện khách quan đặt ra.

Đó là những nội dung chủ yếu: Thứ nhất, Nhà nước đóng vai trò chủ đạo trong việc định hướng, quy hoạch, điều tiết phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt là đối với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo con đường phát triển “rút ngắn”; thứ hai, Nhà nước đổi mới chức năng trong quan hệ với thị trường, từ vị thế quản lý, điều hành trực tiếp các hoạt động kinh tế bằng mệnh lệnh hành chính, sang vị thế kiến tạo môi trường phù hợp để phát huy cao các tác động tích cực của cơ chế thị trường, tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế phát huy mọi nguồn lực và tiềm năng phát triển trong môi trường cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng; thứ ba, đối với xã hội, Nhà nước chuyển sang “quản lý, quản trị” - đồng hành và phục vụ nhân dân; thứ tư, Nhà nước đóng vai trò chủ đạo trong việc thúc đẩy quá trình phát triển dân chủ và dân chủ hóa xã hội trên cơ sở tôn trọng và phát huy quyền con người, quyền công dân ở Việt Nam, phát huy các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc và các giá trị cơ bản chung - phổ quát của nhân loại; thứ năm, Nhà nước đóng vai trò chủ đạo trong việc phát triển khoa học - công nghệ và phát triển nguồn lực con người, nhất là trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra mạnh mẽ; thứ sáu, Nhà nước phải thực hiện đầy đủ các chức năng chính trị, kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, trong đó chức năng phát triển mạnh kinh tế là trung tâm, nhằm đạt được mục tiêu phát triển “rút ngắn”.

Thực hiện những nội dung nêu trên, việc xây dựng thể chế kiến tạo phát triển, thúc đẩy phát triển sáng tạo của quần chúng nhân dân trở thành nhiệm vụ trọng tâm của Nhà nước. Thể chế đó phải phát huy cao nhất quyền làm chủ của nhân dân, ý chí, khát vọng, sức sáng tạo, sự đồng thuận của cả dân tộc cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Theo đó, nguyên tắc pháp quyền, thượng tôn pháp luật, nguyên lý chủ quyền nhân dân trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước phục vụ nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân; thực sự trong sạch, vững mạnh, liêm chính được bảo đảm; qua đó, phòng ngừa và đẩy lùi tệ tham nhũng và các biểu hiện tha hóa quyền lực.

Hơn nữa, chính khi đó Nhà nước sẽ thực hiện hiệu quả mối quan hệ với thị trường và xã hội: thực hiện tốt các chức năng vốn có trong một nền kinh tế thị trường hiện đại, đồng thời sử dụng và phát huy cao nhất các mặt mạnh và hạn chế những mặt trái của cơ chế thị trường, huy động và sử dụng có hiệu quả cao mọi nguồn lực của xã hội cho sự phát triển nhanh, bền vững đất nước. Duy trì hệ thống đổi mới, sáng tạo quốc gia có hiệu quả cao, công dân sẽ được bảo đảm sự bình đẳng về cơ hội phát triển, tiếng nói của người dân, của xã hội ngày càng mạnh mẽ và có trọng lượng tham gia công việc của Nhà nước./.    

---------------------------------

(1) C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 1995, t. 2, tr. 141
(2) C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Sđd, t. 2, tr. 123
(3) C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Sđd, t. 4, tr. 424
(4) Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, t. 47, tr. 362
(5) Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t. 47, tr. 363
(6) Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới (Đại hội VI, VII, VIII, IX), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr. 311
(7) Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới (Đại hội VI, VII, VIII, IX), Sđd, tr. 460
(8) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 19
(9) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 69
(10) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 27 – 28
(11) Đại hội IX năm 2001 lần đầu tiên nêu lên khái niệm “nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”, xác định 6 thành phần kinh tế bao gồm: Kinh tế nhà nước; kinh tế tập thể; kinh tế cá thể, tiểu chủ; kinh tế tư bản tư nhân; kinh tế tư bản nhà nước; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Đại hội X năm 2006 xác định 5 thành phần kinh tế bao gồm: Kinh tế nhà nước; kinh tế tập thể; kinh tế tư nhân; kinh tế tư bản nhà nước; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Đại hội XI năm 2011 xác định 4 thành phần kinh tế bao gồm: Kinh tế nhà nước; kinh tế tập thể; kinh tế tư nhân; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoàiĐại hội XII năm 2016 xác định 4 thành phần kinh tế bao gồm: Kinh tế Nhà nước; kinh tế tập thể; kinh tế tư nhân; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoàiĐại hội XIII năm 2021 xác định 4 thành phần kinh tế bao gồm: Kinh tế nhà nước; kinh tế tập thể; kinh tế tư nhân; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
(12) Pháp luật tạo lập môi trường kinh doanh: (1) Pháp luật về đầu tư: Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, Luật Đầu tư..; (2) Pháp luật về kinh doanh: Bộ luật Dân sự, Luật Thương mại, Luật Doanh nghiệp tư nhân, Luật Doanh nghiệp Nhà nước…; (3) Pháp luật về lao động: Bộ luật Lao động, Luật về người lao động Việt Nam đi lao động ở nước ngoài theo hợp đồng… Pháp luật về nghĩa vụ, giao dịch và hợp đồng: Bộ luật Dân sự, Luật Thương mại, Bộ luật Hàng hải, Bộ luật Lao động, Luật Kinh doanh… Pháp luật về pháp nhân, doanh nghiệp: Luật Chứng khoán, Luật Kinh doanh bất động sản, Luật Luật sư, Luật Hợp tác xã, Luật Thương mại, Luật Đầu tư, Luật Cạnh tranh… Pháp luật về tài sản, đất đai và sở hữu: Bộ luật Dân sự, Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Đất đai, Luật Nhà ở… Pháp luật về xác lập và thực hiện các thủ tục trong lĩnh vực kinh tế: Bộ luật Tố tụng hình sự, Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật Tố tụng hành chính… Pháp luật về quan hệ quốc tế: Luật Ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế; Luật Quốc tịch…
(13) Ngày 23-5-2021, 99,6% cử tri cả nước (gần 70 triệu người) đã đi bỏ phiếu, thực hiện quyền và nghĩa vụ công dân, bầu ra 499 đại biểu Quốc hội khóa XV; 3.721 đại biểu hội đồng nhân dân cấp tỉnh, 22.550 đại biểu hội đồng nhân dân cấp huyện và 239.788 đại biểu hội đồng nhân dân cấp xã, nhiệm kỳ 2021-2026. Cuộc bầu cử đã diễn ra dân chủ, đúng luật, an toàn trong bối cảnh cả hệ thống chính trị, toàn dân và toàn quân nỗ lực phòng, chống đại dịch COVID-19.
(14) Được Quốc hội khóa XIII thông qua ngày 25-11-2015 tại Kỳ họp thứ mười, có hiệu lực từ 1-7-2016.
(15) Trần Văn Phòng: “Góp phần bác bỏ ý kiến cho rằng “Việt Nam hiện nay phải chuyển đổi thể chế chính trị từ toàn trị sang dân chủ”, trích trong sách Phê phán các quan điểm sai trái, bảo vệ nền tảng tư tưởng cương lĩnh, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2017, tr. 323
(16) Theo Báo cáo 5 năm (của Ban Dân vận Trung ương) thực hiện Quyết định số 99-QĐ/TW, ngày 3-10-2017 của Ban Bí thư, “Ban hành Hướng dẫn khung để các cấp ủy, tổ chức đảng trực thuộc Trung ương tiếp tục phát huy vai trò của nhân dân trong đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”
(17) Theo Báo cáo tổng quan về công tác quản lý nhà nước về hội và quỹ hội của Bộ Nội vụ, tháng 10-2022: Đến tháng 12-2021, cả nước có 93.425 hội. Trong đó, về phạm vi hoạt động: có 571 hội có phạm vi hoạt động cả nước và liên tỉnh, 92.854 hội có phạm vi hoạt động địa phương; về tính chất: có 27.719 hội quần chúng do Đảng, Nhà nước giao nhiệm vụ (Trung ương có 30 hội, cấp tỉnh có 905 hội, cấp huyện có 3.346 hội, cấp xã có 23.438 hội)

Nguồn: https://tapchicongsan.org.vn/web/guest/chinh-tri-xay-dung-dang/-/2018/1081002/quan-diem-cua-cac-nha-sang-lap-chu-nghia-mac---le-nin-ve-quan-chung-nhan-dan-voi-tu-cach-dong-luc-cua-phat-trien-lich-su-va-su-van-dung-cua-dang-cong-san-viet-nam.aspx


Bình luận (0)

Simple Empty
No data

Cùng chuyên mục

Tạp chí danh tiếng tiết lộ những điểm đến đẹp nhất Việt Nam
Rừng Tà Kóu tôi đi
Phi công kể lại giây phút 'bay qua biển cờ đỏ ngày 30-4, tim rung lên vì Tổ quốc'
Tp. Hồ Chí Minh 50 năm sau ngày thống nhất

Cùng tác giả

Di sản

Nhân vật

Doanh nghiệp

No videos available

Thời sự

Hệ thống Chính trị

Địa phương

Sản phẩm